Cây và hoa bạc thau
Sự phân bố của cây bạc thau
Bạc thau là tên các
cây thuộc chi Argyreia, họ khoai lang hay bìm bìm; gồm các loài sau:
- Bạc thau, thảo bạc,
bạc sau, lú lớn, thảo bạc. Cây này được ghi trong các sách “Những cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam” của cố GS.TS Đỗ Tất Lợi, “Cây thuốc và động
vật làm thuốc ở Việt Nam” của tập thể các GS. TS của Viện Dược liệu và
một số tác giả khác. Cây này chỉ có ở vùng núi phía Bắc từ đèo Hải Vân
trở ra. Bộ phận thường dùng làm thuốc là lá.
- Bạc thau hoa đầu. Dây leo nhưng
cứng hơn, toàn thân có lông màu vàng nâu. Lá mọc so le, phiến lá hình
trứng hay gần tròn; hai mặt lá và cuống đều có lông màu nâu. Cụm hoa ở
nách lá, hoa màu hồng. Quả nang màu hồng hay màu vàng nâu. Cây mọc ở cả
các tỉnh phía Bắc và phía Nam, ở các lùm bụi, vùng núi Hoà Bình, Thái
Nguyên, Hà Nội, Đồng Nai, Khánh Hoà. Bạc thau hoa đầu được dùng trong
dân gian chữa rong kinh, rong huyết, chữa gãy xương và bong gân. Ở Vân
- Bạc thau Malabar:
Mới thấy có ở Kom Tum.
- Bạc thau lá mềm: Có
từ Quảng Trị trở vào. Lá được làm thuốc đắp mụn nhọt. Ở Giava
(Indonexia) dùng rễ kết hợp với nhiều loài cây khác để chữa đau dạ dày;
lá chữa mụn nhọt.
- Bạc thau tím, thảo
bạc gân: Cây được nhập từ Ấn Độ, có ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Bạc thau lá tù, bạc
thảo: Cây có ở Ninh Thuận, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng. Dân gian địa phương
dùng lá chữa cảm cúm.
- Bạc thau xám tro,
bạc thau nhóm: Cây có ở Kom Tum, Đắc Lắc. Ở Vân
Tính vị, tác dụng của cây bạc thau
Theo các nhà chuyên
môn, cây thuốc ở An Giang đang được khai thác ồ ạt với tên gọi là bạc
thau đá chỉ là tên theo cách gọi của người dân địa phương (do cây bạc
thau ở đây sống trên những kẽ đá) chứ không có cây thuốc bạc thau đá.
Chúng tôi xin giới
thiệu những bộ phận của cây bạc thau được nhiều địa phương sử dụng chữa
bệnh:
Cây còn có tên gọi
khác như bạc sau, bạch hoa đằng, chấp miên, thảo bạc, pác túi (Tày). Là
loại dây leo bò hoặc cuốn. Thân có lông tơ màu trắng bạc, sau nhẵn, vỏ
thân màu nâu. Lá nguyên, mọc so le, phiến lá hình bầu dục hay trái xoan,
mặt trên nhẵn màu xanh thẫm, mặt dưới có lông dày màu ánh bạc. Cụm hoa
hình tán mọc ở kẽ lá; đài hoa hình chén có lông màu ánh bạc. Quả hình
cầu, khi chín có màu đỏ, trong chứa 2 - 4 hạt màu nâu. Cây mọc các tỉnh
phía Bắc, từ đèo Hải Vân trở ra. Mọc ở các bờ bụi, nhất là trên triền
đồi núi đá vôi.
Bạc thau vị hơi đắng,
tính mát, có tác dụng điều kinh, sát khuẩn, tiêu viêm, giải độc. Thường
được dùng trong dân gian, làm thuốc chữa bí tiểu tiện, đái ít, rát buốt,
nước tiểu đục, kinh nguyệt không đều, rong kinh, bạch đới, mụn nhọt lở
ngứa, sốt rét, viêm khí quản cấp và mạn, ho. Ở Quảng Tây (Trung Quốc),
dùng toàn cây trị ho, viêm thận thuỷ thũng, chân tay yếu mỏi; dùng ngoài
trị độc do giang mai.
Một số ứng dụng chữa bệnh
Chữa khí hư, kinh
nguyệt không đều: Lá bạc thau 10g, rễ xích đồng nam 10g, vỏ thân mía tía
10g, rễ cỏ tranh 10g, rễ móc diều 8g, cỏ hàn the 8g, lá huyết dụ 8g.
Phơi khô. Sắc uống.
Hoặc: Bạc thau 20g,
rau dền gai 15g. Sắc uống.
Chữa rong kinh, rong
huyết:
Bài 1: Lá bạc thau 30 -
40g, rửa sạch, giã nát, thêm ít nước sôi để nguội, vắt lấy nước để
uống. Bã đắp lên đỉnh đầu (
Bài 2: Lá bạc thau
20g, ngải cứu 20g, lá bạch đầu ông 20g. Giã nát vắt lấy nước để uống.
Chữa băng huyết: Lá
bạc thau 10g, ngổ trâu 16g, sao vàng. Sắc uống trong ngày. Dùng trong 5 -
7 ngày. Có thể dùng dạng tươi với liều gấp 3 - 5 lần, rửa sạch, giã
nát, thêm nước vắt lấy nước để uống.
Chữa mụn nhọt, lở
loét: Lá bạc thau 30g, lá xuyên tiêu 30g, lá trầu không 20g, thuốc lào
5g. Giã nát, đảo trên chảo cho nóng, đắp vào chỗ lở loét và băng lại.
Mỗi ngày thay 1 lần.
Hoặc lá bạc thau khô giã nhỏ mịn, rắc vào vết loét. Thuốc có tác dụng
ngừng chảy nước vàng.
Chữa sưng tấy, ứ
huyết: Lá bạc thau 10g, lá quýt rừng 10g. Sắc uống.
Hoặc: Lá bạc thau tươi
30g, lá xuyên tiêu 30g, lá dây đòn gánh 30g. Giã nát.
Cho vào chảo, đảo nóng
với ít rượu. Đắp lên chỗ sưng đau. Ngày làm 1 lần.
Chữa ho trẻ em: Lá bạc
thau 6 - 8g, lá chua me 6 - 8g, lá xương sông 6 - 8 g.
Giã nát, vắt lấy nước
cho uống (có thể thêm ít đường phèn cho dễ uống)
Chữa lở ngứa, rôm sảy,
ghẻ lở: Lấy lá bạc thau nấu với nước để tắm, rửa.
Các cây thuốc trên thường dùng lá để chữa bệnh. Việc người dân đang khai thác bừa bãi, đào cả rễ cây để bán cho thương lái đang làm cho loài thuốc quý này đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Hiện, kinh nghiệm lấy rễ chữa bệnh chỉ có ở Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia.