1. Tầm quan trọng của suy dinh dưỡng:
Suy
dinh dưỡng do thiếu protein- nǎng lượng (thường gọi là suy dinh dưỡng)
là tình trạng thiếu dinh dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta.
Biểu hiện của suy dinh dưỡng là trẻ chậm lớn và thường hay mắc bệnh
nhiễm khuẩn như tiêu chảy và viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả nǎng học
tập, nǎng suất lao động kém khi trưởng thành.
Nǎm 2000 ở nước ta có 2,5 triệu trẻ em
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, chủ yếu là suy dinh dưỡng thể nhẹ và vừa.
Tuy vậy, các thể suy dinh dưỡng này cũng có ý nghĩa quan trọng vì đứa
trẻ dễ mắc bệnh, tǎng nguy cơ tử vong và thường kèm theo thiếu hụt các
vi chất dinh dưỡng. Đáng chú ý là trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ và vừa
ít được người mẹ, các thành viên khác trong gia đình chú ý tới vì trẻ
vẫn bình thường. ở một cộng đồng (xóm, làng, xã) có nhiều trẻ suy dinh
dưỡng, ta càng khó nhận biết được vì chúng đều "nhỏ bé" như nhau. Do đó,
suy dinh dưỡng trẻ em cần được sự quan tâm của mọi người.
2. Làm thế nào để biết trẻ bị suy dinh dưỡng?
Theo
dõi cân nặng hàng tháng là cách tốt nhất để nhận ra đứa trẻ bị suy dinh
dưỡng hay không. Trẻ bị suy dinh dưỡng khi không tǎng cân, nhẹ cân hơn
đứa trẻ bình thường cùng tuổi.
3. Tại sao trẻ bị suy dinh dưỡng?
Thiếu ǎn, bữa ǎn thiếu số lượng, thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển:
Trẻ
dưới 5 tuổi có nhu cầu dinh dưỡng cao để phát triển cơ thể. Để đáp ứng
nhu cầu đó, cần cho trẻ ǎn uống đầy đủ theo lứa tuổi. Trẻ dưới 4 tháng
tuổi cần được bú mẹ hoàn toàn. Sữa mẹ là thức ǎn lý tưởng của trẻ nhỏ.
Từ tháng thứ 5 trẻ bắt đầu ǎn thêm ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi này, thực
hành nuôi dưỡng trẻ có ý nghĩa quan trọng đối với suy dinh dưỡng. Nhiều
bà mẹ chỉ cho trẻ ǎn bột muối, thức ǎn sam (dặm) thiếu dầu mỡ, thức ǎn
động vật, rau xanh, hoa quả. Đây là những tập quán nuôi dưỡng chưa hợp
lý cần được khắc phục. Mặc khác, để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng, trẻ cần
được ǎn nhiều bữa trong ngày vì trẻ nhỏ không thể ǎn một lần với khối
lượng lớn như trẻ lớn hoặc người lớn. Điều này có liên quan đến vấn đề
chǎm sóc trẻ.
Người mẹ bị suy dinh dưỡng: Người mẹ
trước và trong khi mang thai ǎn uống không đầy đủ dẫn đến bị suy dinh
dưỡng và có thể đẻ ra đưa con nhẹ cân, còi cọc. Đứa trẻ bị suy dinh
dưỡng từ trong bào thai sẽ dễ bị suy dinh dưỡng sau này. Người mẹ bị suy
dinh dưỡng, ǎn uống kém trong những tháng đầu sau đẻ dễ bị thiếu sữa
hoặc mất sữa, do đó đứa con dễ bị suy dinh dưỡng.
Các bệnh nhiễm
khuẩn như viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh ký sinh trùng: Đây là
tình trạng hay gặp ở nước ta. Chế độ nuôi dưỡng không hợp lý khi trẻ
bệnh là một nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng sau mắc bệnh ở trẻ dưới 5
tuổi.
Thiếu chǎm sóc hay đứa trẻ bị "bỏ rơi": Ngoài chǎm sóc về
ǎn uống, đứa trẻ cần chǎm sóc về sức khoẻ (tiêm chủng, phòng chống nhiễm
khuẩn), chǎm sóc về tâm lý, tình cảm và chǎm sóc về vệ sinh. Môi trường
sống ở gia đình bị ô nhiễm, sử dụng nguồn nước không sạch để nấu ǎn,
tắm giặt cho trẻ, sử lý nước thải, phân, rác không đảm bảo là những yếu
tố dẫn đến suy dinh dưỡng.
4. Những đứa trẻ nào dễ bị suy dinh dưỡng?
Trẻ từ 6-24 tháng: thời kỳ có nhu cầu dinh dưỡng cao, thời kỳ thích ứng với môi trường, thời kỳ nhạy cảm với bệnh tật.
Trẻ không được bú sữa mẹ hoặc không đủ sữa.
Trẻ đẻ nhẹ cân (<2500g), trẻ để sinh đôi, sinh ba.
Trẻ ở gia đình đông con, điều kiện vệ sinh kém, gia đình không hoà thuận.
Trẻ hiện đang mắc các bệnh nhiễm khuẩn như: bệnh sởi, tiêu chảy hay viêm đường hô hấp …
5. Cần làm gì để phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại mỗi gia đình?
Muốn
phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, cần có sự hiểu biết, chủ động và
thay đổi thực hành của mỗi gia đình. Do đó, chương trình phòng chống suy
dinh dưỡng lấy gia đình là đối tượng thực hiện công tác chǎm sóc dinh
dưỡng cho trẻ em. Mọi gia đình đều hưởng ứng và thực hiện 8 nội dung cụ
thể sau đây:
1. Chǎm sóc ǎn uống của phụ nữ có thai để đạt mức
tǎng cân 10-12 cân trong thời gian có thai. Khám thai ít nhất 3 lần,
tiêm đủ 2 mũi phòng uốn ván.
2. Cho trẻ bú sớm trong nửa giờ đầu sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 4 tháng đầu và tiếp tục cho bú đến 18-24 tháng.
3. Cho trẻ ǎn bổ sung (ǎn sam, dặm) từ tháng thứ 5. Tô màu đĩa bột, tǎng thêm chất béo (dầu, mỡ, lạc, vừng).
4. ǎn nhiều bữa. Thực hiện phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng: Phụ nữ có thai uống viên sắt/ acid folic hàng ngày. Trẻ em 6-36 tháng uống vitamin A liều cao 2 lần một nǎm. Phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn (tiêu chảy, viêm đường hô hấp). Thực hiện tiêm phòng đầy đủ. Chǎm sóc và nuôi dưỡng hợp lý trẻ bị bệnh.
5. Phát triển ô dinh dưỡng trong hệ sinh thái VAC (vườn, ao, chuồng) để có thêm thực phẩm cải thiện bữa ǎn gia đình. Chú ý nuôi gà, vịt để trứng, trồng rau ngót, đu đủ, gấc.
6. Phấn đấu bữa ǎn nào cũng có đủ 4 món cân đối. Ngoài cơm (cung cấp nǎng lượng), cần có đủ
3 món nữa là: rau quả (cung cấp vitamin, chất khoáng và chất xơ); đậu phụ, vừng lạc, cá, thịt, trứng (cung cấp chất đạm, béo) và canh cung cấp nước và các chất dinh dưỡng bổ sung giúp ǎn ngon miệng.
7. Thực hiện vệ sinh môi trường, dùng nguồn nước sạch, tẩy giun theo định kỳ, rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi đại tiểu tiện. Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, thức ǎn không là nguồn gây bệnh.
8. Thực hiện gia đình hạnh phúc, có nếp sống vǎn hoá, nǎng động, lành mạnh. Có biểu đồ tǎng trưởng để theo dõi sức khoẻ của trẻ. Không có trẻ suy dinh dưỡng, không sinh con thứ ba.