Theo các thầy thuốc, bộ phận dùng là cành, lá và hạt. Thân và lá thu hái khi cây chưa có hoa hoặc có ít nụ hoa; hạt lấy ở những quả già và tinh dầu cất từ lá. Toàn cây É có chứa tinh dầu với hàm lượng từ 2,5-3%, có thể đến 5%. Hàm lượng tinh dầu cao nhất vào lúc cây ra hoa. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là citral với tỷ lệ 56-75% và nhiều chất khác.
- Chữa đau bụng, trướng bụng, ăn không tiêu, nôn mửa: Cành lá É phơi khô, cắt nhỏ, 10-20g, hãm nước uống trong ngày.
- Chữa táo bón: Hạt É (5-10g), ngâm vào 100ml nước ấm đến khi bên ngoài hạt có một lớp nhầy màu trắng bao quanh rất nhớt. Thêm đường, khuấy đều mà uống.
- Chữa cảm, cúm, sốt, đau đầu: Lá É để tươi (20-30g), dùng riêng hoặc phối hợp với nhiều loại lá thơm khác như lá bưởi, lá chanh, cúc tần, hương nhu…, mỗi thứ 10g, nấu nước xông cho ra mồ hôi.
- Chữa viêm lợi, chảy máu chân răng, tưa lưỡi: Lá É tươi rửa sạch, ép cùng với lớp vỏ lụa ở mặt trong vỏ cây sổ (lượng mỗi thứ 30g). Ngậm nhiều lần trong ngày.
- Chữa viêm thận, viêm bàng quang, đái rắt, đái buốt: Tinh dầu É (3-6 giọt), pha với sirô và nước thành nhũ tương, uống trong ngày.
Các thầy thuốc cũng khuyến cáo: Chỉ dùng hạt É ít nhất một giờ trước hoặc sau khi dùng các loại thuốc uống khác, không dùng loại hạt này trong vòng một tuần trước khi sắp phẫu thuật. Ngoài ra, do hạt É khô có tính hút nước mạnh, nên nếu dùng không đủ nước, hạt é có thể trương nở gây tắc ruột và hạt é có tính nhuận trường cao, phụ nữ có thai không nên dùng.
(Theo Báo Nông nghiệp Việt Nam)